,

Sơ lược về một số loại giấy tờ tuỳ thân (từ 1954 đến nay)

(1) Sau năm 1954

Đầu tiên, ngày 27/11/1957 đã  ban hành quy định về giấy chứng minh và thể lệ cấp phát giấy chứng minh. Lúc này, Giấy chứng minh có 9 số và thời hạn là năm năm. Giấy chứng minh sẽ cấp cho tất cả mọi người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên. Những người bị bệnh điên không được cấp giấy chứng minh. (Xem thêm: Nghị định số 577-TTg, ngày 27/11/1957).

Sau đó, đã có sự thay đổi về quy định đối với giấy chứng minh. Cụ thể là bổ sung quy định về những người bị mất trí, những người đang bị giam giữ, đang bị quản chế không được cấp giấy chứng minh. (Xem thêm: tại Nghị định số 150-CP của Hội đồng Chính phủ, ngày 02/10/1964 ).

Đến ngày 25/07/1972, tại Quyết định số 215-TTg của Thủ tướng Chính phủ, “về việc cấp giấy chứng nhận căn cước” thì có quy định về việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho những người từ 15 tuổi đến 17 tuổi và những người từ 18 tuổi trở lên ở nông thôn trong thời điểm đó chưa được cấp giấy chứng minh.

 Sau khi đất nước thống nhất, ngày 09/08/1976 thì Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 143-CP về việc cấp giấy căn cước cho nhân dân trong cả nước. Theo đó, thay vì từ 18 tuổi trở lên như trước, giấy căn cước được cấp cho tất cả mọi công dân nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ tuổi 15 trở lên hiện đang sinh sống trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Giấy căn cước được cấp mới thống nhất tên gọi, quốc hiệu thay thế cho các loại giấy tờ tùy thân đã được cấp phát và sử dụng trước đó ở miền Bắc và chế độ cũ ở miền Nam.

(2) Từ năm 1999

Ngày 03/02/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/1999/NĐ-CP về Chứng minh nhân dân. Chứng minh nhân dân mới được in hoa văn màu xanh trắng nhạt và bổ sung mã vạch hai chiều ở mặt sau để chống làm giả. Có giá trị sử dụng 15 năm kể từ ngày cấp. Đối tượng được cấp Chứng minh nhân dân là công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên, đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam thay vì từ tuổi 15 trở lên như quy định từ năm 1976.

(3) Từ năm 2012

Năm 2012, Bộ Công an áp dụng cấp Chứng minh nhân dân theo công nghệ mới, sử dụng vật liệu thiết kế bằng nhựa, sản xuất theo tiêu chuẩn kỹ thuật và bảo mật riêng của ngành. Đây là thời điểm Chứng minh nhân dân có 12 số thay vì 9 số như mẫu cũ và ảnh của công dân lần đầu được in trực tiếp trên thẻ, có mã vạch hai chiều. Vào năm 2012, Chứng minh nhân dân còn được thêm in thông tin tên cha, mẹ đẻ ở mặt sau.

(4) Từ năm 2016

Từ ngày 01/01/2016 khi Luật Căn cước công dân năm 2014 có hiệu lực thì Bộ Công an lần đầu cấp thẻ Căn cước công dân thay cho Chứng minh nhân dân. Thẻ Căn cước công dân được in mã số định danh cá nhân 12 số, thay vì số chứng minh nhân dân cũ. Mặt sau thẻ cũng có mã vạch điện tử, mã hóa các trường thông tin của công dân. Đến tháng 10/2018, sau hơn hai năm thí điểm, Bộ Công an sửa đổi một số thông tin trên mặt thẻ CCCD mã vạch. Theo đó, tại mặt sau thẻ CCCD, cụm từ “Cục trưởng Cảnh sát đăng ký, quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư” được thay thế thành “Cục trưởng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội”.

(5) Từ năm 2021

Từ ngày 01/01/2021, thẻ Căn cước công dân gắn chip đã thay thế cho thẻ Căn cước công dân trước đây. Mặt trước thẻ Căn cước công dân vẫn giữ nguyên các thông tin gồm: họ tên, quê quán, nơi thường trú và bổ sung thêm biểu tượng chip, mã QR, tiếng Anh bên cạnh tiếng Việt được quy định cụ thể tại Thông tư 06/2021/TT-BCA của Bộ Công an ngày 23/01/2021 quy định về mẫu thẻ Căn cước công dân.

(6) Từ năm 2024

Từ 01/7/2024, sau khi Luật Căn cước công dân năm 2023 có hiệu lực, thì thẻ Căn cước công dân đượcđổi thành thẻ Căn cước. Đối tượng được cấp thẻ là công dân Việt Nam. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên bắt buộc phải làm thẻ Căn cước, người dưới 14 tuổi có thể làm thẻ theo nhu cầu (không bắt buộc).

Thẻ Căn cước có nhiều thay đổi như: Thông tin “quê quán” đổi thành “nơi đăng ký khai sinh”; thông tin “nơi thường trú” đổi thành “nơi cư trú”; Lược bỏ hình ảnh dấu vân tay của chủ thẻ, cơ quan cấp thẻ đổi thành Bộ Công an.

(*) Lưu ý: Chứng minh nhân dân còn thời hạn sử dụng thì được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024.  Thẻ căn cước công dân đã được cấp trước ngày 01/7/2025 thì vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được ghi trong thẻ, được cấp đổi sang thẻ Căn cước khi công dân có yêu cầu.

         Ngoài ra, từ 01/7/2025, công dân sẽ có Căn cước điện tửCăn cước được thể hiện qua tài khoản định danh điện tử. Sau khi đã có Căn cước điện tử, công dân có thể thực hiện tích hợp thông tin vào thẻ Căn cước thông qua việc cấp, cấp đổi, cấp lại thẻ Căn cước hoặc ứng dụng VneiD.

(*) Rất cám ơn sự quan tâm của quý vị đối với bài viết. Mọi ý kiến và mong muốn hiểu rõ hơn các vấn đề có liên quan, xin liên hệ theo thông tin sau:

Email: tuethanh@tuethanhlaw.com

Điện thoại: (024) 22458855 / 0945975855 / 0984890609

Văn phòng giao dịch: Số 5, ngõ 49/28, Huỳnh Thúc Kháng, phường Láng, Hà Nội

Khuyến cáo:

Các thông tin của bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin và không phải là ý kiến pháp lý cho bất cứ trường hợp cụ thể nào. Tất cả các quy định pháp luật được dẫn chiếu chỉ có hiệu lực tại thời điểm bài viết này được đăng tải và có thể đã không còn hiệu lực tại thời điểm các bạn đọc bài viết này.

Chúng tôi khuyến nghị các bạn trước khi sử dụng nguồn thông tin lấy từ bài viết này cần tham khảo ý kiến tư vấn chuyên môn từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền liên quan.

Các vấn đề có liên quan đến bài viết (nội dung, quyền sở hữu trí tuệ hoặc các ý kiến khác…) xin vui lòng liên hệ bằng thư điện tử đến địa chỉ: tuethanh@tuethanhlaw.com

Công ty Luật TNHH Tuệ Thành là một tổ chức hành nghề luật có năng lực, kinh nghiệm trong việc cung cấp các dịch vụ pháp lý trên nhiều lĩnh vực đến các tổ chức và cá nhân có nhu cầu. Chúng tôi rất vinh dự và tự hào nếu được trở thành người đồng hành có trách nhiệm với quý khách hàng trong tương lai!

Mọi yêu cầu xin liên hệ với Chúng tôi theo thông tin sau:

Email: tuethanh@tuethanhlaw.com

Điện thoại: (024) 22458855 / 0945975855 / 0984890609

Văn phòng giao dịch: Số 5, ngõ 49/28, Huỳnh Thúc Kháng, phường Láng, Hà Nội

,